Thống nhất Trung Quốc Minh_Thái_Tổ

Gia nhập nghĩa quân

Chùa Hoằng Giác nơi Chu Nguyên Chương trú thân chẳng mấy chốc bị phá hủy bởi chiến tranh. Năm 1351, cuộc khởi nghĩa Hồng Cân bùng nổ, Quách Tử Hưng và một số người ở Hào Châu cũng tới tấp nổi lên hưởng ứng. Chu Nguyên Chương được tin và đang chăm chú theo dõi sự phát triển của thời cuộc. Một hôm, Chu Nguyên Chương cho là thời cơ đã đến, liền rời khỏi chùa Hoàng Giác sang Hào Châu theo Quách Tử Hưng. Do mưu trí và dũng cảm, Chu Nguyên Chương dần dần được thăng chức và trở thành người tâm phúc của Quách Tử Hưng. Sau đó, Quách Tử Hưng còn gả người con gái nuôi là Mã Thị cho Chu Nguyên Chương, nên uy tín của Chu Nguyên Chương trong nghĩa quân ngày càng cao.

Bấy giờ, cùng khởi binh với Quách Tử Hưng có bốn người khác, họ đều tự xưng là nguyên soái, nhưng giữa bốn người này lại không ai chịu phục ai, nên mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Một hôm, 4 người đã liên hợp lại bắt giữ Quách Tử Hưng, còn Chu Nguyên Chương cũng suýt bị toi mạng, sự việc này về sau cũng được sắp xếp ổn thỏa. Nhưng Chu Nguyên Chương qua đó đã nhận rõ được sự thiển cận của những người này, biết họ cũng sẽ chẳng làm được việc gì lớn. Ít lâu sau, Chu Nguyên Chương thừa lệnh về quê chiêu mộ binh mã, các bạn bè như Từ Đạt, Chu Đức,.... cũng đến theo, chỉ trong mấy ngày đã tụ tập được hơn 700 người. Chu Nguyên Chương có lực lượng riêng của mình thì không muốn ở lại thành Hào Châu, nên sau khi được sự đồng ý của Quách Tử Hưng, đã dẫn dắt đội ngũ của mình đánh nam dẹp bắc, số người đi theo mỗi ngày một đông.

Khi đoàn quân đi qua Định Viễn, có một văn nhân địa phương tên là Lý Thiện Trường đến xin gặp và được Chu Nguyên Chương phong là mưu sĩ. Một hôm, Chu Nguyên Chương hỏi Lý Thiện Trường rằng: "Nay thiên hạ đang đại loạn, các nơi đều đang chém giết lẫn nhau, thì đến bao giờ mới được thái bình?". Lý Thiện Trường đáp: "Cuối thời triều nhà Tần cũng từng xảy ra đại loạn như hiện nay, Hán Cao Tổ xuất thân bình dân, vì ông ta sáng suốt, lại biết dùng người và không giết hại kẻ vô tội, nên chỉ trong 5 năm đã thống nhất được thiên hạ. Nay triều đình Nhà Nguyên đang hỗn loạn, thiên hạ đang bị tan rã, sao ông không học Hán Cao Tổ?".

Quách Tử Hưng sau đó cùng thủ lĩnh nghĩa quân Từ Thọ Huy giao tranh ác liệt với nhau ở miền nam. Triều đình nhà Nguyên nhân cơ hội đó tập trung đánh dẹp lực lượng Hồng Cân quân ở miền bắc.

Năm 1355, Quách Tử Hưng bị bệnh qua đời, con trai là Quách Thiên Tự kế nhiệm chức nguyên soái, Chu Nguyên Chương được phong làm phó soái. Ít lâu sau, Quách Thiên Tự tử trận, Chu Nguyên Chương được thay làm nguyên soái, tiếp quản cựu bộ của Quách Thiên Tự, thực lực càng trở nên lớn mạnh.

Đánh bại các đối thủ

Năm 1356, Chu Nguyên Chương đánh hạ được Kim Lăng (Nam Kinh) rồi đổi g̣ọi Ứng Thiên Phủ, nơi đây trở thành căn cứ địa của ông và là kinh đô của nhà Minh trong suốt thời gian ông trị vì. Chính quyền của ông bắt đầu nổi tiếng và nạn dân khắp nơi bắt đầu đổ về đây, trong 10 năm tiếp theo dân số Nam Kinh tăng gấp 10 lần. Trong khoảng thời gian này, quân Hồng Cân bị chia năm xẻ bảy, Chu Nguyên Chương đứng đầu một nhánh nhỏ (gọi là Minh), còn Trần Hữu Lượng (sau khi giết chết Từ Thọ Huy để chiếm quyền năm 1360) đứng đầu nhánh lớn, kiểm soát vùng trung tâm thung lũng sông Dương Tử.

Lúc bấy giờ Chu Nguyên Chương có hai kình địch, một là Trần Hữu Lượng đang chiếm cứ vùng Hồ Quảng, nắm giữ vùng đất thượng du sông Trường Giang. Một người khác là Trương Sĩ Thành, đang xưng bá tại vùng châu thổ -Hàng, chiếm một vùng đất phì nhiêu giàu có. Vị trí chiếm đóng của hai người này trở thành thế gọng kìm, có thể đánh kẹp Chu Nguyên Chương vào giữa, tạo thế uy hiếp rất lớn.

Bình định Trần Hữu Lượng

Quân phiệt và lãnh chúa vào cuối thời Nguyên, bao gồm cả lãnh thổ do Chu Nguyên Chương kiểm soát năm 1363.

Năm 1360, Trần Hữu Lượng đoạt được thành Thái Bình của Chu Nguyên Chương, giết chết người con nuôi của Chu Nguyên Chương là Chu Văn Tốn và viên tướng thủ thành là Hoa Vân, rồi cử hành nghi lễ xưng đế tại ngôi miếu Ngũ Thông tại Thái Thạch, đặt quốc hiệu là Hán, đổi niên hiệu là Đại Nghĩa, rồi đắc ý kéo quân chiến thắng trở về Giang Châu. Sau đó, Trần Hữu Lượng còn hẹn với Trương Sĩ Thành cùng đánh chiếm Ứng Thiên, nhưng Trương Sĩ Thành chưa chịu. Thế là Trần Hữu Lượng tự mình xua đoàn chiến thuyền, từ Giang Châu xuôi theo dòng Trường Giang tiến xuống phía Đông, nhắm mục tiêu là Ứng Thiên. Đoàn quân của Trần Hữu Lượng tiến xuống ồ ạt, khí thế hùng tráng.

Khi tin tức này truyền đến Ứng Thiên, thì cả thành Ứng Thiên đều chấn động. Chu Nguyên Chương vội vàng triệu tập quần thần để thương thảo đối sách. Có người bảo Trần Hữu Lượng dũng cảm thiện chiến, nhuệ khí đang cao, lại chiếm giữ được vùng Giang, Sở, khống chế cả thượng du sông Trường Giang, địa thế hiểm trở, binh tướng mạnh mẽ, thế lực to lớn, vậy nếu tranh phong với ông ta, thì chỉ là đem trứng chọi đá, tự tìm lấy sự diệt vong. Vậy chi bằng hãy hiến thành Ứng Thiên cho ông ta, rồi quy phục dưới cờ cửa ông ta là tốt nhất. Có người lại cho rằng Trần Hữu Lượng mới vừa chiếm được thành Thái Bình, khí thế đang lên, vậy chi bằng trước tiên hãy lùi về Kiến Khang, Chung Sơn, là nơi có vương khí, có thể chiếm giữ ở đấy để chờ khi nhuệ khí của Trần Hữu Lượng xuống, thì ta mới xua quân quyết chiến với hắn. Có người bảo Trần Hữu Lượng chẳng qua là một gã đánh cá ở Miện Dương, chỉ là một tên tiểu lại, vậy nên cùng hắn quyết chiến một trận sống chết tại Kiến Khang. Vạn nhất nếu không thắng được, thì rút lui cũng chưa phải muộn. Chu Nguyên Chương cho rằng những chủ trương đó chưa phải là thượng sách, nhưng bản thân mình thì không thể giải thích tại sao. Ông ngó quanh mọi người có mặt trong phiên họp, thấy Lưu Bá Ôn đôi mắt sáng ngời, im lặng không nói. Chu Nguyên Chương đoán biết vị quân sư của mình đang có diệu kế trong lòng. Ông bèn mời Lưu Bá Ôn vào trong một phòng riêng, dò hỏi mưu kế.

Sau đó, Chu Nguyên Chương sai Hồ Đại Hải kéo quân đánh Tính Châu để khống chế con đường rút lui của Trần Hữu Lượng. Chu Nguyên Chương lại sai các tướng Thường Ngộ Xuân, Phùng Quốc Thắng, Hoa Cao, Từ Đạt, dẫn quân đi đặt những ổ mai phục, chuẩn bị xuất kích khi thời cơ đến. Sau khi sự bố trí đâu vào đấy Chu Nguyên Chương bèn mời người bạn thân của Trần Hữu Lượng là Khang Mâu Tài, viết một bức thư mật, giả vờ hẹn với Trần Hữu Lượng để làm nội ứng, bảo ông ta phải nhanh chóng kéo quân tới tấn công thành Ứng Thiên.

Do nôn nóng muốn thủ thắng, để chiếm lĩnh vùng đất Kiến Khang, là một vùng đất quý về mặt phong thủy, nên Trần Hữu Lượng đã xuống lệnh tức khắc khởi binh để tấn công. Riêng về Chu Nguyên Chương thì tích cực chuẩn bị: trước hết đặt một ổ mai phục bên cạnh Thạch Khôi Sơn với quân số đông ba vạn người, rồi lại xuống lệnh phá hủy chiếc cầu gỗ tại Giang Đông, đưa đá và sắt tới để tạo chướng ngại trên dòng sông, chờ chiến thuyền của Trần Hữu Lượng sa vào bẫy.

Quả nhiên, khi đoàn chiến thuyền của Trần Hữu Lượng đi vào một con sông hẹp, và khi đến cầu Giang Đông thì không thấy chiếc cầu gỗ nữa, mà dưới dòng sông toàn là đá tảng to. Trần Hữu Lương cả kinh, vội vàng dùng mật khẩu để liên lạc, nhưng không có ai trả lời. Đến chừng đó, hắn mới biết mình đã bị trúng kế, nhưng muốn thối lui cũng không còn kịp nữa. Quân đội của Chu Nguyên Chương khi thấy chiến thuyền của Trần Hữu Lượng đã đến cầu Giang Đông liền phất cờ vàng, phục binh từ khắp bốn phía nhảy ra, đánh kẹp Trần Hữu Lượng từ trên bộ lẫn dưới sông. Không mấy chốc, toàn quân cửa Trần Hữu Lượng bị đánh tan tác. Bản thân của Trần Hữu Lượng phải nhảy xuống thuyền con bỏ trốn. Chu Nguyên Chương chỉ huy đại quân thừa thắng truy kích, lấy lại thành Thái Bình, rồi tiến quân bảo vệ được cả Kiến Khang.

Năm 1362, đại tướng Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi của nhà Nguyên đánh dẹp gần hết Hồng Cân quân ở miền bắc thì bị bọn hàng tướng là Điền Phong, Vương Sĩ Thành ám hại ở Ích Đô. "Quốc triều điển cố" chép: Chu Nguyên Chương nghe tin Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi bị hại, chỉ nói: "Thiên hạ hết người rồi!". Con của Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi là Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi (có tên Hán là Vương Bảo Bảo) nổi giận đánh tan nát Ích Đô, giết chết Điền Phong và Vương Sĩ Thành để trả thù cho cha, quét sạch Hồng Cân quân ở miền bắc, bắt đầu dòm ngó miền nam, nơi Chu Nguyên Chương cùng Trần Hữu Lượng và Trương Sĩ Thành vẫn còn đang tranh đấu với nhau. Tuy nhiên, Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi sau đó lại rơi vào cuộc chiến với đồng liêu của cha mình là Bột La Thiếp Mộc Nhi do những bất đồng nội bộ, nên chiến dịch nam chinh của nhà Nguyên chưa thể thực hiện.

Năm 1363, Chu Nguyên Chương quyết định thân chinh để giải cứu An Phong (nay nằm về phía Nam Thọ Huyện, tỉnh An Huy) để giải vây cho bộ tướng cửa mình là Lữ Trân cùng với Long Phượng hoàng đế Hàn Lâm NhiLưu Phúc Thông đang bị Trương Sĩ Thành bao vây. Khi Chu Nguyên Chương cử binh đến cứu viện cho An Phong, thì Trần Hữu Lượng bèn thừa cơ xua quân tấn công. Hắn điều động mấy trăm chiến thuyền, năm sáu mươi vạn quân đội, dốc hết sức mạnh để bao vây Hồng Đô (nay là thành phố Nam Xương, tỉnh Giang Tây), và đã nhanh chóng chiếm Cát An, Lâm Giang, và Vô Vi Châu. Nam Xương bị vây hơn tám mươi ngày, kịch chiến liên tục đêm ngày mấy mươi hôm, tình trạng hết sức nguy cấp.

Quân Chu Nguyên Chương chưa đến thì An Phong đã thất thủ. Hàn Lâm Nhi thoát nạn, còn Lưu Phúc Thông thì có thuyết đã tử trận ở thành, có thuyết còn sống cùng Hàn Lâm Nhi thêm một thời gian nữa.

Chu Nguyên Chương nghe tin Trần Hữu Lượng ra quân đánh đất của mình thì bèn đích thân dẫn hai chục vạn đại binh đi cứu viện, ra lệnh cho Lưu Bá Ôn ở lại giữ Ứng Thiên. Trần Hữu Lượng nghe nói Chu Nguyên Chương dẫn binh tới cứu viện nên vội vàng tháo vòng vây và bố trí trận địa tại hồ Bà Dương, chuẩn bị nghênh chiến. Quân cứu viện của Chu Nguyên Chương tới nơi, liền bắt đầu kịch chiến với quân địch trên hồ Bà Dương. Giai đoạn đầu của trận đánh, Chu Nguyên Chương nhiều lần gặp cảnh thất lợi, suýt nữa lâm nguy. Bí quá, Chu Nguyên Chương bèn ra lệnh cho Từ Đạt về Ứng Thiên thay thế Lưu Bá Ôn. Lưu Bá Ôn đi bất kể ngày đêm. Sau khi đến nơi, bèn cùng Chu Nguyên Chương bàn bạc chiến thuật để phá địch. Hai người đều chủ trương dùng hỏa công. Nhưng Chu Nguyên Chương vẫn lo hướng gió không ổn định, thuyền nhiều khó đốt cháy hết, nếu không khéo lửa còn có thể cháy đến thuyền mình như chơi. Căn cứ theo sự quan sát hiện tượng thiên văn của Lưu Bá Ôn, ông đoán đến hoàng hôn thì sẽ có gió Đông bắc thổi. Họ liền chuẩn bị ngay bảy chiếc thuyền nhỏ, bên trên chất nhiều hình nộm bằng rơm để nghi binh, lại đổ nhiều dầu lên cỏ sậy khô, còn chứa trong thuyền rất nhiều thuốc súng và lưu huỳnh, nhanh chóng cho thuyền tiến ra giữa hồ. Khi tới gần chiến thuyền của địch, binh sĩ bèn quăng móc để móc dính thuyền địch và thuyền hỏa công, rồi nổi lửa đốt.

Chỉ trong khoảnh khắc, lửa cháy ngất trời. Những thuyền to đều bị cháy. Cuộc chiến đấu giữa đôi bên diễn ra vô cùng ác liệt, một ngày phải tiếp lửa đến mấy chục lần. Tiếng hò reo sát phạt, tiếng sóng gió, tiếng lửa cháy hòa lẫn lại làm một, nghe thật rùng rợn. Trong khi kịch chiến, tướng sĩ hai bên thương vong rất nhiều. Trần Hữu Lượng không tiên liệu được điều đó nên sự tổn thất càng to hơn.

Cuộc hỗn chiến tại hồ Bà Dương kéo dài ba hôm vẫn chưa phân thắng bại. Về sau, Lưu Bá Ôn kiến nghị với Chu Nguyên Chương nên đưa quân chủ lực ra cửa hồ, chận con đường lưu thông của địch quân, rồi dùng biện pháp “đóng cửa đánh chó”, để cắt đứt đường vận chuyển lương thực của địch. Do lương thực thiếu thốn, binh sĩ mệt mỏi, nội bộ của Trần Hữu Lượng bắt đầu nghi kỵ lẫn nhau, nên quân của Trần Hữu Lượng đã nhanh chóng bị đánh bại. Một số lớn bị bắt và đầu hàng. Trần Hữu Lượng khi chường mặt để quan sát tình hình, bỗng một mũi tên lạc bắn trúng, chết ngay tại chỗ. Quân đội cửa Chu Nguyên Chương đã trả một giá rất cao về mặt thương vong, và trải qua mấy lần nguy hiểm, rốt cục đã đánh bại triệt để cánh quân của Trần Hữu Lượng.

Trận đánh được xem như một trong hai trận thủy chiến lớn nhất lịch sử Trung Quốc, trận đánh còn lại là trận Xích Bích thời Tam Quốc, cả hai trận đánh đều có điểm tương đồng là lực lượng phía nam yếu thế hơn nhưng đã thắng lực lượng phía bắc mạnh hơn và cả hai trận đánh đều có tính chất quyết định cho cục diện lịch sử Trung Quốc lúc đó. Chu Nguyên Chương khải hoàn về Nam Kinh, từ đó không trực tiếp thân chinh nữa mà chỉ đạo các tướng lĩnh từ căn cứ của mình.

Bình định Trương Sĩ Thành

Lúc 2 tập đoàn Chu Nguyên Chương – Trần Hữu Lượng triển khai quyết chiến, Trương Sĩ Thành vẫn cho rằng có thể giữ được cục diện chia ba chân vạc, không đưa ra hành động nào.

Khi cuộc chiến bình định quân Hán của Trần Hữu Lượng ở phía Tây đã dần dần kết thúc, thì Chu Nguyên Chương tập trung binh lực, quay mũi giáo chĩa về hướng Đông, tấn công vào Ngô Quốc do Trương Sĩ Thành dựng lên. Khi Trương Sĩ Thành chiếm cứ được vùng Triết Tây, phía Bắc liên kết được với Lưỡng Hoài, dựa vào sức mạnh vũ lực của mình, đã mấy phen xâm chiếm những vùng đất thuộc thế lực của Chu Nguyên Chương.

Vào năm 1363, Trương Sĩ Thành bao vây thành Kiến Đức. Vị nguyên soái giữ thành là Lý Văn Trung nghe tin cả giận, muốn đánh một trận chết sống với hắn. Nhưng lúc đó có mặt Lưu Bá Ôn tại thành Kiến Đức. Ông bèn giải thích tường tận cho Lý Văn Trung nghe: "Chỉ ba hôm sau Trương Sĩ Thành nhất định sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp tế lương thảo, và buộc phải triệt thoái. Khi hắn rút lui thì ta đuổi theo, chắc chắn chỉ cần đánh một trận là bắt sống được hắn". Lý Văn Trung bèn xuống lệnh truy kích. Tức thì, những con ngựa chiến đua nhau chạy như bay, mãi đến Đông Dương mới đuổi kịp bộ đội của Trương Sĩ Thành. Sau một trận kịch chiến, quân đội của Trương Sĩ Thành vốn đang đói lại đang mệt mỏi, nên không sao chống đỡ nổi. Chẳng mấy chốc, toàn bộ thảm bại và bị Lý Văn Trung bắt sống vô số.

Năm 1364, Chu Nguyên Chương tự xưng là Ngô Vương.

Tháng 2 năm 1365, Chu Nguyên Chương sau trừ xong chính quyền Trần Hán của Trần Hữu Lượng thì nhắm đến khu vực Giang Nam của Sĩ Thành. Tháng 10, Chu Nguyên Chương phái Từ Đạt lãnh binh chinh thảo, tiến hành sách lược "trước lấy các quận, huyện Thông, Thái, cắt vây cánh Sĩ Thành, sau đó đánh lấy Chiết Tây". Chưa đến nửa năm, toàn bộ vùng đất phía bắc Trường Giang của Trương Sĩ Thành đã thuộc về tay của Chu Nguyên Chương.

Cùng lúc đó ở phía bắc, Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi đã dẹp xong Bột La Thiếp Mộc Nhi, cứu được Thái tử, được Nguyên Huệ Tông phong làm Tả thừa tướng. Khoách Khuếch lúc này muốn đem quân nam chinh nhưng không dám khinh suất Chu Nguyên Chương và Trương Sĩ Thành, bèn truyền bọn Lý Tư Tề ở Hoài Nam đến gặp để bàn kế sách. Bọn Tư Tề vốn ở vai cha chú với Khoách Khuếch nên không tuân lệnh, còn dấy binh chống lại ông. Hai bên đánh nhau mấy năm trời, buộc triều đình phải chủ trương giảng hòa. Khoách Khuếch vẫn chưa nguôi giận, ngầm phái thuộc hạ Mạch Cao xâm nhập vào sào huyệt của Tư Tề để ám sát ông ta. Nhưng bộ hạ của Mạch Cao phần lớn đều từng dưới trướng Bột La, liền xúi Mạch Cao phản lại Khoách Khuếch, công khai tập kích đất của Tư Tề rồi vào triều đổ tội cho ông. Huệ Tông muốn trừ khử Khoách Khuếch, bèn bãi chức Tả thừa tướng của y rồi ép phải về đóng quân ở Nhữ Nam. Sau khi khôi phục binh quyền cho Thái tử, Huệ Tông lệnh cho con mình cùng với Tư Tề, Mạch Cao và Quan Bảo ở Thái Nguyên liên minh với nhau để tấn công Khoách Khuếch. Khoách Khuếch nổi giận, đánh chiếm Thái Nguyên, giết sạch quan lại nhà Nguyên cắt đặt. Huệ Tông nổi giận, bãi nhiệm hết chức tước của Khoách Khuếch và sai các nơi thảo phạt y, gây ra cảnh tương tàn trong nội bộ nhà Nguyên ở phía bắc. Việc này khiến Chu Nguyên Chương ở phía nam yên tâm hơn trong việc đánh dẹp Trương Sĩ Thành.

Tháng 5 năm 1366, Chu Nguyên Chương ban bố "Bình Chu hịch", liệt kê 8 tội trạng của Sĩ Thành. Tháng 8, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân tiến quân, không đầy 3 tháng đánh chiếm Hồ Châu, Hàng Châu, Thiệu Hưng. Quân đội của Chu Nguyên Chương kéo đến dưới thành Bình Giang, tiến hành thế trận bao vây. Chu Nguyên Chương nghe theo ý kiến của Diệp Đoái, đắp lũy dài để vây khốn, dựng tháp quan sát động tĩnh trong thành, trên tháp lại có hảo pháo, đêm ngày bắn phá. Trương Sĩ Thành liều chết chống lại, nhiều lần đột vây thất bại, đến khi lương – đạn đều hết, cả yên ngựa cũng đem ra nấu, phải dỡ chùa miếu lấy gạch đá thay tên đạn, nhưng trăm họ đồng lòng cố thủ với Trương Sĩ Thành.

Cũng trong năm 1366, Chu Nguyên Chương sai Liêu Vĩnh Trung đón Long Phượng hoàng đế Hàn Lâm Nhi, nhưng thuyền lật khiến Hàn Lâm Nhi chết. Liêu Vĩnh Trung bị đổ tội và bị Chu Nguyên Chương xử tử.

Trải qua 10 tháng, trong thì kiệt quệ, ngoài thì không có viện quân, ngày Tân Tị (8) tháng 9 năm 1367 (1 tháng 10 năm 1367) thành vỡ, Trương Sĩ Thành tự sát không chết, bị bắt sống. Vợ Trương Sĩ Thành là Lưu thị ôm hai con trai, chất củi dưới lầu mà tự thiêu. Chu Nguyên Chương khuyên hàng không được, giải Trương Sĩ Thành về phủ Ứng Thiên, lại sai Lý Thiện Trường đến khuyên hàng. Trương Sĩ Thành tiếp tục cự tuyệt, trong đêm treo cổ tự sát.

Chiến thắng trước Trương Sĩ Thành giúp chính quyền Chu Minh giành quyền kiểm soát toàn bộ các vùng đất bắc và nam sông Dương Tử, thanh thế rất mạnh. Việc này khiến các thủ lĩnh nghĩa quân nhỏ nhanh chóng theo hàng, trong đó có Phương Quốc Trân. Nhờ đó, Chu Nguyên Chương đã hoàn toàn thống nhất được miền nam, tạo thế đối địch với triều đình nhà Nguyên ở phía bắc.

Thực tế lúc ấy ở Tứ Xuyên vẫn còn nước Đại Hạ của Khai Hy hoàng đế Minh Thăng (kinh đô ở Trùng Khánh), vốn li khai triều đình từ năm 1362, đã không đầu hàng Chu Nguyên Chương nhưng cũng không đủ mạnh để đe dọa thế lực của ông. Mãi đến năm 1371, Chu Nguyên Chương mới chia binh làm hai đường đánh vào nước Đại Hạ. Kinh đô Trùng Khánh nhanh chóng bị quân Minh chiếm đóng. Minh Thăng sau đó bị nhà Minh đày sang Cao Ly.

Tháng 12 năm 1367, khúc ca khải hoàn nổ ra tại Tô Châu, Chu Nguyên Chương tuyên bố sẽ xưng đế sau khi thống nhất được Giang Nam. Ông được nhân dân hưởng ứng và ủng hộ hết mình, họ quyết tâm lật đổ bằng được triều đình ngoại tộc thối nát của Nguyên triều tại Trung Nguyên.

Cuối năm 1367, Chu Nguyên Chương phong Từ Đạt làm đại tướng quân, Thường Ngộ Xuân làm phó tướng dẫn 25 vạn đại quân bắc phạt, đã nhanh chóng chiếm được Sơn Đông từ tay quân Mông Cổ. Tháng 1 năm 1368, Chu Nguyên Chương xưng đế, lập ra triều đại nhà Minh, lấy niên hiệu là Hồng Vũ, định đô ở Nam Kinh. Nhiệm vụ tiếp theo của ông là đánh đuổi người Mông Cổ khỏi Trung Quốc, khôi phục giang sơn của người Hán.

Đánh đuổi người Mông Cổ

Chiếm Hoa Bắc

Năm 1368, Chu Nguyên Chương hạ lệnh cho Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân tiếp tục xuất quân bắc phạt đánh đuổi người Mông Cổ khỏi đất của người Hán. Lúc này thủ lĩnh Hà Chân ở Quảng Châu, Quảng Đông, Giang Tây, Phúc Kiến dẫn quân quy hàng Hồng Vũ hoàng đế nhà Minh.

Từ Đạt kéo 25 vạn quân Bắc, thu lấy Đại Lương. Lương vương A Lỗ Ôn, cha của Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi, dâng Hà Nam đầu hàng. Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi (em của Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi) thua to phải bỏ chạy, còn các cánh quân khác đều tan rã, không ai chống cự. Quân Minh bức đến Đồng Quan, bọn Lý Tư Tề của nhà Nguyên hoảng sợ chạy về phía tây, còn bọn Mạch Cao, Quan Bảo của nhà Nguyên thì bị Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi bắt giết vì nghe lời Nguyên Huệ Tông đánh mình mấy năm qua.

Nguyên Huệ Tông sợ hãi, hạ chiếu quy tội cho Thái tử, bãi bỏ binh quyền của con mình, khôi phục quan tước cho Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi, lệnh cho ông cùng bọn Lý Tư Tề thảo phạt quân Minh của Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân. 1 tháng sau, quân Minh do Từ Đạt chỉ huy tiến công đến kinh thành Đại Đô của nhà Nguyên.

Nguyên Huệ Tông nghe tin, biết đại thế đã mất, liền cùng đám quần thần vội vã kéo gia quyến bỏ chạy khỏi Đại Đô. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi cứu viện không kịp. Tháng 8 năm 1368, quân Minh của Từ Đạt chiếm được Đại Đô (còn được gọi là kinh thành Khanbaliq).

Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi sai tướng đánh bại tướng nhà Minh là bọn Thang Hòa ở Hàn Điếm. Nguyên Huệ Tông ở Khai Bình lệnh cho Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi cố gắng thu phục Đại Đô. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi từ phía bắc ra khỏi Nhạn Môn quan, muốn từ Bảo An đi qua Cư Dung mà tấn công vào Bắc Bình. Tướng nhà Minh là bọn Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân nhân đó tập kích quân Mông Cổ tại Thái Nguyên. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi quay về cứu, không ngờ bộ tướng của mình là Khoát Tị Mã đã ngầm đầu hàng quân Minh. Quân Minh cướp trại trong đêm, Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi hoảng hốt đưa 18 kỵ binh rút chạy về phía bắc. Sau khi quân Minh vào Đồng Quan, bọn Lý Tư Tề của Mông Cổ kẻ đầu hàng người bỏ trốn, nhà Nguyên chỉ còn dựa vào Nạp Cát Xuất ở phía đông bắc và Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi ở phía tây bắc mà chống giữ.

Nguyên Huệ Tông lúc này đã về đến Mông Cổ, lập ra nhà Bắc Nguyên và lên ngôi ở Thượng Đô. Chính quyền Đại Nguyên ở Trung Quốc tồn tại được 97 năm cuối cùng đã bị diệt vong kể từ đây. Người Mông Cổ buộc phải bỏ toàn bộ vùng Hoa Bắc và rút lui hẳn về thảo nguyên vào tháng 9 năm 1368. Mặc dù sự kiểm soát của Chu Nguyên Chương đối với toàn lãnh thổ Trung Quốc vẫn chưa được ổn định, nhưng Chu Nguyên Chương cho rằng nhà Nguyên đã mất thiên mệnh khi triều đại này bỏ kinh đô Khanbaliq. Nhà Minh sau này không xem Nguyên Huệ Tông sau năm 1368 và những người kế nhiệm ông này như những hoàng đế hợp pháp của Trung Hoa nữa.

12 lần Bắc phạt vào Mông Cổ

Người Mông Cổ tuy đã bị đánh đuổi khỏi Trung Quốc đại lục, nhưng lãnh thổ của đế quốc Mông Cổ vẫn còn rất lớn, kéo dài sự cai trị từ Biển Nhật Bản đến dãy núi Altay. Vẫn còn những thế lực ủng hộ nhà Nguyên là lực lượng chống nhà Minh tại Vân NamQuý Châu. Hơn nữa, triều đình Bắc Nguyên vẫn đang lăm le tái chiếm Đại Đô nếu có cơ hội, khi vẫn còn duy trì lực lượng quân đội khá hùng hậu ở vùng biên giới phía bắc và phía tây. Do đó, Chu Nguyên Chương quyết định thực hiện nhiều chiến dịch Bắc tiến vào lãnh thổ Mông Cổ, nhằm triệt tiêu âm mưu đó của họ, cũng như để mở rộng lãnh thổ phía bắc của đất nước.

Tháng 6 năm 1369, Từ Đạt lại kéo quân vào thảo nguyên Mông Cổ, mở đầu cho một chuỗi các đợt chinh phạt Mông Cổ trên diện rộng của nhà Minh. Nguyên Huệ Tông phải cầu viện đại tướng nước Cao Ly là Lý Thành Quế đem quân ngăn chặn Từ Đạt. Tuy nhiên, Lý Thành Quế do muốn quy thuận theo nhà Minh nên đã liên minh với quân của Từ Đạt. Thượng Đô cũng rơi vào sự chiếm đóng của Đại Minh, Nguyên Huệ Tông phải chạy xa về phía bắc đến Ứng Xương. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi ở phía tây, chỉ có thể phần nào hạn chế quân Minh. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi bao vây tướng Minh là Trương ÔnLan Châu, sau đó tiêu diệt toàn bộ cánh quân cứu viện của quân Minh, kể cả chủ tướng nhà Minh là Vu Quang. Thời điểm này Khai quốc công thần nhà Minh là Thường Ngộ Xuân đã qua đời, chỉ còn Từ Đạt làm đại tướng quân.

Khi xưa Khoách Khuếch Thiếp Mộc NhiHà Nam, Chu Nguyên Chương thường sai sứ đến thông hảo, ông đều không gặp. Thư từ gởi đến, đều không đáp lại. Nay Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi chạy ra Tái Bắc, Minh Thái Tổ thường sai sứ chiêu dụ, cũng không đáp ứng. Cuối cùng Minh Thái Tổ sai Lý Tư Tề đến. Ban đầu, Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi tiếp đãi ông ta theo lễ. Sau đó lại sai kỵ sĩ đưa về. Đến địa giới nhà Minh, kỵ sĩ nói: "Chủ soái có lệnh, xin ngài lưu lại một vật để kỷ niệm". Lý Tư Tề đáp: "Ta đi xa không mang theo gì cả!". Kỵ sĩ bèn nói: "Xin ngài để lại 1 cánh tay!". Lý Tư Tề không làm sao được, đành phải chặt tay. Lý Tư Tề trở về không lâu thì chết.

Ngày 3 tháng 1 năm 1370, quân Minh do Từ Đạt chỉ huy lần thứ 2 tiến hành bắc phạt vào đất Mông Cổ, đánh vào thủ đô Mông Cổ là Hoà Lâm (Karakorum), bắt sống hàng ngàn quý tộc Mông Cổ vào năm 1370. Quân của Từ Đạt đã tiến vào Transbaikalia (Ngoại Baikal) và thậm chí tiến xa hơn về phía bắc mà chưa có đội quân nào của Trung Quốc trước đó từng làm được.

Ngày 8 tháng 4 năm 1370, quân của Từ Đạt trong trận Trầm Nhi Dục đã đánh bại Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi giữa đám mồ hoang ở Xuyên Bắc. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi chỉ đưa vợ con vài người vượt Hoàng Hà, ra khỏi Ninh Hạ chạy đến Hòa Lâm (Karakorum). Em gái Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi là Vương thị ở lại Hà Nam, trở thành con dân nhà Minh (nhà văn Kim Dung hình tượng hoá nhân vật này thành Triệu Mẫn quận chúa, sau theo Trương Vô Kỵ sống hết đời hạnh phúc).

Tiến sĩ triều Nguyên là Thái Tử Anh bị bắt trong trận Trầm Nhi Dục, dù bị tra tấn hay dụ dỗ đến đâu cũng không khuất phục. Một ngày kia bỗng rơi nước mắt, nói: "Không phải cho ta, là cho chủ nhân của ta (Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi)!". Minh Thái Tổ nghe vậy rất cảm động. Năm 1376, Thái Tử Anh được Minh Thái Tổ cho thả về Tái Bắc, nhưng khi đó chủ tướng của hắn là Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi đã mất rồi.

Ngày 28 tháng 4 năm 1370, Nguyên Huệ Tông lâm bệnh rồi qua đời ở Ứng Xương. Thái tử Ái Du Thức Lý Đáp Lạp lên kế vị, tức vua Nguyên Chiêu Tông), uỷ thác quốc sự cho Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi. Tháng 9 năm 1371, em gái Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi là Vương thị đang ở Hà Nam của nhà Minh thì bị Từ Đạt của nhà Minh bắt, đem trình diện Minh Thái Tổ. Sau khi nhìn thấy Vương thị, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương vô cùng vui mừng, muốn ban nàng làm vợ cho con trai là Tần vương Chu Sảng, đồng thời làm con tin uy hiếp Khoách Khuếch.

Là một cô gái có khí khách, không chịu khuất phục cường quyền, Vương thị không muốn mình phải làm vợ của Hoàng tử phía kẻ địch. Nàng lấy cớ ông vừa qua đời, phải giữ tròn đạo hiếu nên tỏ ý cự tuyệt hôn sự mà Chu Nguyên Chương định đoạt. Tuy nhiên, Thái Tổ nhà Minh không dễ bỏ cuộc như vậy. Ông hỏi nàng: "Trong thiên hạ, điều gì là quan trọng nhất?'. Vương thị đáp: "Chính là chữ Hiếu". Chu Nguyên Chương bèn nói: "Sai, Trung Hiếu mới là quan trọng nhất. Mà trong Trung Hiếu, chữ Trung nằm phía trước. Trẫm là đương kim Hoàng Đế, Trung Hiếu của khanh, đều phải hướng về Trẫm".

Dưới sự ép buộc rõ ràng của Chu Nguyên Chương, tháng 10 năm 1371, Chu Sảng Hoàng tử cưới Vương thị và phong nàng làm Vương Phi. Nhưng cuộc hôn nhân chính trị này vẫn không thể lay chuyển được Vương Bảo Bảo (Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi), vị mãnh tướng không hề đầu hàng nhà Minh vì sự an nguy của em gái. Điều đó cũng là nền móng cho cuộc đời đau khổ sau này của mỹ nhân bạc mệnh Vương thị. Cuộc hôn nhân do một tay Minh Thái Tổ tạo nên lại khiến cho đến hai người phải chịu khổ. Vương thị bị ép cưới Hoàng tử Chu Sảng, Chu Sảng cũng không hề yêu Vương thị, thậm chí còn hành hạ nàng. Mặc dù sinh cho Chu Sảng đến 3 người con trai, nhưng nàng vẫn không hề được Tần Mẫn vương sủng ái. Thậm chí, Chu Sảng còn giam cầm Vương thị ở hậu viện, cuộc sống như bị cầm tù, cả đời chỉ được quanh quẩn ở chốn sân vườn phía sau.

Năm 1372, Lam Ngọc theo Từ Đạt dẫn quân Minh chia thành 3 đạo đánh Bắc Nguyên lần thứ 3 ở thảo nguyên Mông Cổ, vượt qua Nhạn Môn quan và đánh bại quân Nguyên ở núi Loan, gần sông Thổ Lạp.

Minh Thái Tổ nhiều lần yêu cầu nhà Bắc Nguyên phải giải tán lực lượng quân sự ở vùng biên giới nhưng không thành. Năm 1373, quân Minh lần thứ 4 tiến hành Bắc phạt, chia 3 đường mà tiến. Đạo trung quân của Từ Đạt tiến đến sông Kuul chỉ trong 20 ngày, nhưng đã bị Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi đánh bại gần Hòa Lâm, Từ Đạt phải chạy thoát cùng đám tàn quân còn rất ít. Cánh quân phía đông tiến tới sông Kherlen, cũng bị đánh bại và phải rút về Orkhon và tại đây lại bị quân Nguyên tấn công. Đạo quân này lại bị đánh bại và sau đó thất bại trong trận chiến cuối cùng ở gần Hòa Lâm. Đạo quân phía tây của Lý Văn Trung tuy giành được một số chiến thắng không đáng kể, nhưng sau khi nhận tin chiến bại gửi về từ hai đạo quân khác, cánh quân này cũng đã phải rút lui.

Năm sau (1374), Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi dẫn quân Mông Cổ tấn công Nhạn Môn, Minh Thái Tổ lệnh cho các tướng phòng bị nghiêm ngặt. Theo Minh sử, từ sau chiến dịch Hòa Lâm, quân Minh hiếm khi ra khỏi biên cương. Năm 1375, Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi đưa Nguyên Chiêu Tông dời đến Kim Sơn, mất ở Nha Đình thuộc bể Cáp Lạt Na. Vợ là Mao thị cũng treo cổ mà chết. Em trai Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi là Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi. Sau khi anh mất, Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi tiếp tục phò tá nhà Bắc Nguyên.

Năm 1378, quân Minh bắc phạt Mông Cổ lần thứ 5, đánh chiếm Ứng Xương của Mông Cổ. Vua Nguyên Chiêu Tông băng hà không lâu sau đó. Em trai của ông là Thoát Cổ Tư Thiếp Mộc Nhi đăng cơ, tức Nguyên Ích Tông. Trong khi nhà Bắc Nguyên đang tổ chức tang lễ cho Chiêu Tông, nhà Minh đã gửi sứ giả đến điếu tang và trao trả tù binh Maidarbal, người đã bị bắt làm tù binh trong trận đánh ở Ứng Xương năm 1378. Tuy nhiên, chiến sự giằng co giữa Bắc Nguyên và nhà Minh vẫn diễn ra nhiều năm sau đó. Nguyên Ích Tông đã điều động quân đến đóng tại khu vực gần Ứng Xương và Hoà Lâm, cùng hợp tác với thủ lĩnh Nạp Cáp Xuất của bộ tộc Thát Đát và mở những chiến dịch quân sự đẩy lùi quân Minh về phía nam.

Đáp lại, quân Minh đã thực hiện đợt tiến công lớn vào Bắc Nguyên năm 1380 (Bắc phạt lần thứ 6) và cướp phá kinh đô Hoà Lâm. Tháng 6 năm 1380, nhà Minh lại tiến hành Bắc phạt lần thứ 7, tiến quân đánh các đạo quân đồn trú của quân Nguyên ở miền Bắc Trung Quốc, nhưng thất bại phải rút về. Hai viên tướng Nguyên, Öljei-BuqaNair-Buqa thậm chí đã đánh bại và giết chết tướng Lưu Quang của nhà Minh.

Trong năm 1380, Chu Đệ (con thứ tư của vua Minh Thái Tổ) và gia đình của ông chuyển từ thủ đô Nam Kinh đến Bắc Bình (xưa là Đại Đô), nó từng là kinh đô của triều đại người Mông CổTrung Hoa, có kích thước tương tự như Hoàng cung ở Nam Kinh, so với các Hoàng tử anh em của ông, ông được nhận vùng đất phong Yên vương có điều kiện tốt nhất cho phát triển. Chu Đệ đã tạo ra xung quanh mình một hệ thống quan lại tương đương với 1 triều đình độc lập. Hơn nữa, bên cạnh có tướng Từ Đạt, cha vợ của ông, thành Bắc Bình có vị trí quan trọng và được mở rộng để làm các căn cứ quân sự chính ở phía bắc. Từ đó, Yên vương Chu Đệ cùng anh mình Tấn Cung vương Chu Cương và những người anh em khác đã thực hiện nhiều chiến dịch thành công chống lại quân Mông Cổ dọc theo biên giới.

Trong năm sau (năm 1381), nhà Minh lại huy động một đội quân lớn để tấn công nhà Bắc Nguyên, đó là đợt Bắc phạt lần thứ 8. Cũng trong năm 1381, quân Minh dưới sự chỉ huy của Mộc Anh đánh chiếm những vùng đất cuối cùng của Nhà Nguyên là Vân Nam, Quý Châu và Trung Hoa hoàn toàn được thống nhất dưới sự kiểm soát của nhà Minh. Tuy vậy, Minh Thái Tổ tuyên bố sẽ tiêu diệt lực lượng quân Mãn Châu đồng minh của Bắc Nguyên vào năm 1387 bằng một chiến dịch quân sự lớn và hai bên đều chịu những tổn thất nặng nề trong trận đánh tại Trường Xuân. Cùng năm, do phải hứng chịu một nạn đói khủng khiếp, thủ lĩnh Mãn Châu là Nạp Cáp Xuất đã quyết định đầu hàng quân Minh, đưa Bắc Nguyên vào tình thế bất lợi. Sau khi tiêu diệt Mãn Châu, quân Minh chuyển hướng sang tấn công triều đình của vua Nguyên Ích Tông đang đóng tại Ứng Xương (đợt Bắc phạt lần thứ 9). Vua Nguyên Ích Tông bại trận rút khỏi Ứng Xương, chạy đến hồ Bối Nhĩ (Buyur) đóng quân.

Trong năm 1388, Minh Thái Tổ phong cho Lam Ngọc làm Đại tướng quân (大將軍), thống suất 15 vạn đại quân Minh tiến hành Bắc phạt lần thứ 10, giao chiến với quân của vua Nguyên Ích Tông ở hồ Bối Nhĩ (Buyur). Lam Ngọc dẫn quân Minh vượt qua Vạn Lý Trường Thành, thám báo cáo lại rằng quân Nguyên đang đóng trại tại hồ Bối Nhĩ (Buyur). Quân Minh tiếp tục bắc tiến, vượt qua sa mạc tiến đến hồ Bối Nhĩ vào tháng 4 năm 1388. Quân Minh ban đầu đến gần hồ Bối Nhĩ 40 dặm mà vẫn không thấy quân Nguyên, việc này làm cho Lam Ngọc cảm thấy nản chí và muốn lui quân. Phó tướng là Vương Tích lại khuyên Lam Ngọc rằng đại quân đã đến đây mà tay trắng trở về, không làm nên trò trống gì thì thiên hạ cười cho, chưa kể còn bị nhà vua trách tội. Lam Ngọc nghe lời, hạ lệnh tăng cường dò thám tung tích quân địch, cuối cùng Lam Ngọc phát hiện quân Nguyên đang đóng tại phía đông bắc hồ Bối Nhĩ. Lam Ngọc nhân lúc trời tối lại có bão cát cho quân tiến sát tới doanh trại quân Nguyên.

Ngày 18 tháng 5 năm 1388, Lam Ngọc hạ lệnh tấn công, quân Nguyên vì bất ngờ nên bị đánh tan tác. Tướng Mông Cổ là Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi (em trai của Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi) thua trận bị nhà Minh bắt. Trận đánh kết thúc với nhiều quý tộc Mông Cổ bị bắt sống, trong đó có gia quyến hơn 100 người của vua Nguyên Ích Tông. Quân Minh còn bắt được hơn 7 vạn người, 15 vạn gia súc và chiếm được ngọc tỷ của vua Nguyên Ích Tông. Nguyên Ích Tông phải bỏ chạy về thảo nguyên Hoà Lâm (Karakorum). Trên đường trốn chạy về phía tây để tìm viện binh, Nguyên Ích Tông lại bị Trác Lý Khắc Đồ (Yesüder), một hậu duệ của A Lý Bất Ca (Ariq Böke) và là một đồng minh của người Oirat tấn công và giết chết cùng con trai của mình. Ngôi khả hãn Mông Cổ đã được thừa kế bởi Trác Lý Khắc Đồ. Sự kiện này đã đánh dấu sự suy yếu của quyền lực dòng dõi nhà Nguyên và đánh dấu sự trỗi dậy của người Oirat trên thảo nguyên Mông Cổ. Đối với Chu Nguyên Chương, chiến thắng trong đợt Bắc phạt này đã giúp nhà Minh mở rộng đáng kể cương vực ở biên giới phía bắc.

Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi (em trai của Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi) bị nhà Minh lưu đày đến Kế Châu. Sau đó Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi (em trai của Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi) tìm cách liên hệ với các hàng tướng nhà Nguyên tại Kế Châu thì bị nhà Minh phát giác. Tháng 7 năm 1388, Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi bị tướng nhà Minh là Lam Ngọc giết chết.

Sau khi Trác Lý Khắc Đồ tức vị (gọi là Nguyên Cung Tông), đế chế của Mông Cổ nhanh chóng chia rẽ và rơi vào nội loạn. Gunashiri, một hậu vệ trực hệ của Oa Khoát Đài hãn, đã tách ra khỏi đế chế và tự thành lập một nước nhỏ tên gọi Qara Del. Trong lúc đó, một tướng cũ khác của Nguyên Ích Tông là Necelai đã đầu hàng nhà Minh và được vua Minh Thái Tổ thu dụng. Triều đình nhà Minh đã sử dụng Necelai để thành lập một đội quân người Mông Cổ (còn được biết đến với tên gọi Tam quân) đóng tại vùng mà ngày nay là Nội Mông nhằm chống lại Nguyên Cung Tông. Tuy nhiên, một tướng cũ khác của vị đại hãn trước đây là Shirmen lại thần phục vua Nguyên Cung Tông và sau đó giết chết được Necelai. Ajashir - vị quận công Liêu Đông cũ và là một trong những thủ lĩnh của Tam quân, đã quay về đầu hàng vua Nguyên Cung Tông sau năm 1389.

Ngày 2 tháng 3 năm 1390, Mã Hoà đi cùng Yên vương Chu Đệ khi ông này chỉ huy cuộc chinh phạt đầu tiên vào đất Mông Cổ (nhà Minh bắc phạt Mông Cổ lần thứ 11). Quân Minh đã có một chiến thắng dễ dàng khi tướng Mông Cổ là Nagachu đầu hàng nhà Minh ngay khi ông này nhận ra mình bị nhà Bắc Nguyên lừa dối.

Đến năm 1390, Tấn Cung vương Chu Cương (con thứ ba của Minh Thái Tổ) và những người anh em khác (gồm cả Yên vương Chu Đệ) đã thực hiện nhiều chiến dịch thành công chống lại quân Mông Cổ dọc theo biên giới phía bắc và trấn giữ, dẹp loạn ở biên giới phía bắc. Từ năm 1390 đến năm 1391, quân Mông Cổ của vua Nguyên Cung Tông gây hấn ở biên giới phía bắc nhà Minh. Tề Cung vương Chu Phù (con thứ bảy của Minh Thái Tổ) và Yên vương Chu Đệ (con thứ tư của Minh Thái Tổ) được cử đi dẹp loạn vùng biên ải. Kể từ khi giành được nhiều thắng lợi, Tề Cung vương Chu Phù tỏ ra kiêu ngạo, thường bị phụ hoàng Minh Thái Tổ quở trách.

Đến cuối năm 1391 sau những lần đánh bại quân Mông Cổ, phòng thủ thành công ở biên giới phía bắc, Yên vương Chu Đệ (con thứ tư của Minh Thái Tổ) ở Bắc Bình (nay là Bắc Kinh) được nhiều bộ lạc Mông Cổ đến đầu hàng và hết lòng trung thành với ông.

Năm 1392, một hàng tướng Mông Cổ là Nguyệt Lỗ Thiết Mộc Nhi (月魯帖木兒) làm phản ở Kiến Xương (Tứ Xuyên), tướng Minh là Lam Ngọc được phái đi dẹp. Lam Ngọc nhanh chóng đánh tan phản quân, bắt được Nguyệt Lỗ Thiết Mộc Nhi và các con của ông này giải về Nam Kinh.

Cũng trong năm 1392, nhà Minh lại tổ chức một cuộc tấn công nữa vào Mông Cổ (chiến dịch Bắc phạt lần thứ 12), cướp được rất nhiều người ngựa và gia súc. Vua Nguyên Cung Tông rất có thể đã chết trong trận chiến này. Em trai Nguyên Cung Tông là Ngạch Lắc Bá Khắc kế vị, tức Nguyên Khang Tông. Dưới thời Khang Tông, những người Oirat bắt đầu thách thức công khai dòng họ Bột Nhĩ Chỉ Cân của nhà Bắc Nguyên và nhà Minh cơ bản đã đẩy lùi hẳn các cuộc xâm lược của Mông Cổ. Đây cũng là đợt Bắc phạt cuối cùng của Minh Thái Tổ, nhưng khi con ông là Chu Đệ (Minh Thành Tổ) nắm quyền sau này, nhà Minh lại tiếp tục đẩy mạnh các chiến dịch trấn áp, thu phục các bộ lạc Mông Cổ.

Kế sách

Đối với chính thể chuyên chế của phong kiến Trung Hoa, quân đội là trụ cột của triều đình. Cho nên hầu hết các vua khai quốc đều lập được nhiều chiến công hiển hách. Cũng có thể nói, chiến tranh đã tôi luyện nên trí dũng và tầm nhận thức của một vĩ nhân. Chu Nguyên Chương vạch ra chiến lược Bắc phạt, đã nói rõ ông là người thông minh tài trí hơn người. Đại tướng quân Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân kiến nghị dùng đại quân đánh thẳng vào kinh đô triều Nguyên ngay từ đầu, Chu Nguyên Chương đã nhận thấy không thích hợp. Ông đã chỉ ra:

Quân Nguyên vốn còn hơn mấy chục vạn, không thể khinh địch. Huống hồ thành trì kinh đô của Nhà Nguyên kiên cố, nếu như chỉ có quân tác chiến đi sâu vào, sẽ kẹt lại dưới chân thành, lúc ấy quân Bắc phạt sẽ lọt vào vòng vây, quân Nguyên từ bốn hướng tới cứu viện, há không phải là thất bại cả sao?

Đạo quân đơn độc đánh sâu vào lòng địch thực tế là một điều cấm kỵ của nhà quân sự. Xem xét kỹ tình thế, ông đã vạch ra chiến lược cẩn thận mà tất thắng:

Đầu tiên chiếm Sơn Đông, triệt chỗ phên rậu che chắn; xoay qua chiếm Hà Nam, chặt đứt vây cánh; lấy huyện Đồng Quan để phòng thủ, chặn trước ngạch cửa, hình thế thiên hạ đã lọt vào tay ta. Sau đó xuất quân đánh Kinh đô triều Nguyên lúc ấy lẻ loi không ai cứu viện, không cần đánh ắt cũng chiếm được; giục trống tiến về phía Tây, Vân Trung, Cửu Nguyên cùng với Quan Lũng sẽ bị hạ gọn như cuốn chiếu.

Việc phân tích và bố trí chiến lược kiệt xuất này, hoàn toàn căn cứ theo dự liệu mà phát triển, việc Bắc phạt vì vậy đã thành công.

Nguyên nhân thắng lợi

Bất cứ sự thành công nào của một vĩ nhân, không phải chỉ ngồi đợi ơn ban, mà là nắm lấy vận mệnh của mình. Chu Nguyên Chương đã không có quyền thế, lại không có trình độ văn hóa, ông ta mượn quân đội của Quách Tử Hưng để thâu tóm thiên hạ, sự thành công của ông khái quát lên trong ba điểm chủ yếu:

Hoãn xưng đế

Nghĩa quân các lộ phá thành chiếm đất, chưa lập được căn cứ ổn định đã vội xưng vương. Chu Nguyên Chương đã sử dụng lời khuyên của nho sĩ Lý Thiện Trường:

Xây tường cao, trữ lương nhiều, hoãn xưng đế.

Năm 1359, ông đã sớm trở thành một trang hào kiệt ngất ngưởng binh hùng tướng mạnh, nhưng ông vẫn không xưng vương mà nhận sự thụ phong của Tiểu Minh vương Hàn Lâm Nhi chính quyền Nhà Tống, làm Tả thừa tướng hành tỉnh Giang Tây, năm 1361 được tấn phong tước Ngô Quốc công. Năm 1363, ông rước Tiểu Minh vương về an trí ở Trừ Châu, mượn tay thiên tử ban lệnh cho chư hầu, nhưng vẫn không xưng vương. Năm 1364, Chu Nguyên Chương tiêu diệt tập đoàn quân sự lớn nhất ở lưu vực Trường Giang của Trần Hữu Lượng, lúc này mới xưng là Ngô vương, nhưng vẫn tôn trọng Tiểu Minh vương Nhà Tống.

Biết mình biết ta

Trước kia, khi thực lực của Chu Nguyên Chương chưa lớn mạnh, ông luôn tránh chạm trán với quân chủ lực nhà Nguyên. Ông đã từng đánh bại quân Nguyên ở huyện Lục Hợp (tỉnh An Huy), nhưng đương thời lực lượng của ông rất yếu, không thể đánh nhau với quân chủ lực nhà Nguyên. Do đó, ông thường nộp lại cho triều đình các chiến lợi phẩm thu được, hướng dẫn quân Nguyên đi tấn công quân Trương Sĩ Thành, luôn giữ mối giao hảo với nhà Nguyên, uyển chuyển tránh né các cánh quân hùng mạnh, sách lược này được vận dụng rất thành công.

Trên thực tế, Chu Nguyên Chương cũng không ít lần thất bại trong các chiến dịch chinh phạt Mông Cổ, nên ông vẫn dành một sự tôn trọng lớn đối với các tướng giỏi của nước này. Sau chiến dịch Hòa Lâm, một ngày kia Minh Thái Tổ bày tiệc thết đãi các tướng lĩnh, đột nhiên hỏi: "Kỳ nam tử trên đời có thể là ai?". Các tướng đáp là Thường Ngộ Xuân. Minh Thái Tổ cười nói: "Ngộ Xuân tuy là hào kiệt, nhưng đã là thần tử của ta. Bảo Bảo rốt cục vẫn không chịu hàng phục ta, thật là kỳ nhân, kỳ nam tử vậy!". Diêu Phúc, "Thanh khê hạ bút" chép rằng: sau khi Thái Tổ tán dương Vương Bảo Bảo (tên Hán của Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi), dân gian có câu ngạn ngữ để châm biếm những kẻ kiêu căng là: "thường tây biên nã đắc Vương Bảo Bảo lai da!" (tạm dịch: có giỏi thì ra biên giới phía tây mà bắt Vương Bảo Bảo (Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi) về đây!)

Trần Kiến (1497 – 1567), "Hoàng Minh thông kỷ" chép rằng suốt đời Minh Thái Tổ có 3 việc không làm xong: 1 là Thiếu Truyền quốc tỷ. 2 là chưa bắt được Vương Bảo Bảo (Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi). 3 là không có tin tức của Nguyên Thái tử (tức Nguyên Chiêu Tông, bắt hụt trong lần Bắc phạt thứ 2). Có thể thấy, đối với Minh Thái Tổ, Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi còn xếp trên cả Nguyên Thái tử (Nguyên Chiêu Tông).

Nắm chắc thời cơ để thôn tính dần Giang Nam

Chu Nguyên Chương lợi dụng các cánh quân lớn phản Nguyên ở các lộ làm yểm trợ, không để mất thời cơ phát triển ở vùng trung lưu Trường Giang. Ông mượn vây cánh của Đại Tống, cam chịu phận dưới của Tiểu Minh vương, không xuất đầu lộ diện, mà âm thầm tích lũy phát triển lương thực, mở rộng địa bàn. Ông chọn Tập Khánh làm trung tâm, phía Bắc có Lưu Phúc Thông chống trả quân Nguyên, phía Đông lại có Từ Thọ Huy che chắn. Chu Nguyên Chương lợi dụng thời cơ này để phát triển vùng Giang Nam trước, đánh chiếm những vùng bỏ trống. Trong lúc quân Nguyên đang bận truy quét quân Lưu Phúc ThôngTừ Thọ Huy thì Chu Nguyên Chương cũng đã thống nhất được Giang Nam.

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Minh_Thái_Tổ //nla.gov.au/anbd.aut-an36600399 http://history.people.com.cn/n/2013/0304/c198445-2... http://en.dpm.org.cn/EXPLORE/ming-qing/ http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... http://www.fordham.edu/halsall/eastasia/romchin1.h... http://hua.umf.maine.edu/China/HistoricBeijing/For... http://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb12232305f http://data.bnf.fr/ark:/12148/cb12232305f http://www.idref.fr/031025307 http://id.loc.gov/authorities/names/n80056911